Năm 1533, phần đất Peru mầu mỡ ở Nam Mỹ, được tìm thấy bởi một nhóm người Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của ông Phanxicô Pizarro. Pery trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha và thủ đô ban đầu đặt tại Cuzco, sau dời về Lima, “kinh thành các vua”.
Chính tại đây, ông Gaspar de Flores, người Tây Ban Nha, đã cưới người vợ bản xứ là bà Maria d”Olivia. Ông bà sinh được mười người con. Ngày 20-4-1586, một bé gái chào đời. Vì quá yếu ớt nên bé đã được Rửa Tội ngay tại nhà. Người ta lấy tên thánh của mẹ đỡ đầu là bà Isabel de Harrara và đặt tên cho
bé là Isabella. Ít tuần sau, cha mẹ đưa con tới nhà thờ Thánh Sebastien để Cha sở, là Cha Don Antonio Polanco, làm phép bù cho bé. Sau này bé lãnh phép Thêm Sức do Ðức Cha Toribio, Tổng Giám Mục thành Lima. Trong dịp đặc biệt này, bà Maria d’Olivia thấy có một bông hồng lạ ở trong nôi con, nên tên thánh khi chịu phép Thêm sức của bé đã được đặt là Rose (Hồng).
bé là Isabella. Ít tuần sau, cha mẹ đưa con tới nhà thờ Thánh Sebastien để Cha sở, là Cha Don Antonio Polanco, làm phép bù cho bé. Sau này bé lãnh phép Thêm Sức do Ðức Cha Toribio, Tổng Giám Mục thành Lima. Trong dịp đặc biệt này, bà Maria d’Olivia thấy có một bông hồng lạ ở trong nôi con, nên tên thánh khi chịu phép Thêm sức của bé đã được đặt là Rose (Hồng).
Bé Hồng có bộ tóc xoắn rất xinh. Hồi chừng 4-5 tuổi, khi đang chơi với người anh tinh nghịch, bé đã bị cậu ném bùn dơ lên tóc. Bé kêu lên cản anh, nhưng cậu ta chẳng những không ngưng, mà còn cảnh cáo: “Sao mày hô hoán lên thế! Mày không biết rằng lửa hỏa ngục sẽ thiêu rụi bộ tóc của những người kiêu ngạo chỉ để ý đến bộ tóc đẹp như của mày sao?” Nghe anh cảnh cáo thế, Bé òa lên khóc. Nhưng cũng từ đó bé đổi hẳn thái độ. Bé lấy kéo cắt ngay đi những lọn tóc quăn óng ả, và từ đấy không để tính tự ái ngăn cản ước muốn vào Thiên Ðàng của bé. Khi biết được chuyện, ba má đã la rầy bé về việc cắt tóc, nhưng bé nhẫn nhục chịu la và nhận hình phạt.
Có lẽ cô Hồng đã đọc truyện Thánh Cataria Siena, và chịu ảnh hưởng nhiều về đời sống thánh thiện của vị Thánh nữ Tiến sĩ này. Thật vậy, từ khi lên mười, cô bé đã từng cảm nghiệm được Tình yêu Chúa mãnh liệt. Mỗi lần quỳ trước Thánh Thể, cô bé như được bao phủ bằng sự hiện diện đích thực của Chúa. Cũng chính vì thế, vào thời gian này, cô bé đã tự ý và âm thầm khấn giữ Ðức Khiết Trinh để chứng tỏ lòng luôn luôn yêu mến duy một mình Chúa Giêsu.
Bé Hồng lây cái tính sợ bóng tối của bà thân mẫu: cả hai mẹ con không bao giờ dám tới chỗ tối. Tuy sợ bóng tối, nhưng khi cầu nguyện, thì cô bé lại thích ở một mình trong bóng tối, vì lúc ấy cô được hoàn toàn hướng về Chúa mà không bị ai thấy. Một đêm kia Hồng nán lại cầu nguyện lâu hơn tại một cái chòi ngoài vườn. Bà mẹ sợ có chuyện gi xẩy ra cho con gái, mà bà lại sợ tối, nên đã nhờ chồng dẫn ra. Khi thấy cha mẹ tới, Hồng ngưng cầu nguyện, đứng dậy và xin lỗi cha mẹ. Trong lúc về, cô tự nghĩ, “Mặc dầu má cũng nhát như mình, thế mà má cảm thấy an toàn khi có ba ở gần. Vậy sao mình lại sợ bóng tối khi biết chắc chắn có Chúa Giêsu, Bạn Trăm Năm luôn ở bên?”. Bị cảm kích bởi ý tưởng đó, Hồng đã sửa được tính nhát, không còn sợ bóng tối nữa.
Trong cảnh nhà đông con, ông thân sinh lại buôn bán thua lỗ, nên gia đình phải sống trong cảnh thiếu thốn, Hồng phải cuốc đất trồng bông và thường đem bông ra chợ bán. Cô tỏ ra thành thạo trong việc bán bông. Anh cô, Fernand, là người thông cảm và hiểu em mình có khiếu buôn bán khác với các em khác. Khi Hồng tới tuổi trưởng thành, có nhiều chàng mong được xe duyên với cô. Vì vậy ông bà thân sinh đã quan tâm nhiều đến việc chọn bạn trăm năm cho con, nhưng Hồng một mực từ chối. Cũng vì nhất định từ chối việc kết hôn, mà Hồng suốt hơn mười năm đã lãnh biết bao cay đắng, bao khổ đau từ mọi phía. Song song với việc từ chối kết hôn, cô nhất quyết xin cho được nhập Dòng Ðaminh lúc 20 tuổi, và đã tự ý khấn sống Khiết trinh trọn đời.
Từ thời thơ ấu, khi mới lên 4-5 tuổi, Hồng đã can đảm dẹp tự ái và hy sinh cắt đi những lọn tóc xinh xắn, nên cô đã được Chúa ban cho hiểu biết con đường dẫn tới Chúa là những đau khổ và hy sinh, hy sinh những gì ưa thích nhất và can đảm gánh chịu những gi trái ý nhất. Bài học đó, cô nhìn ngắm tượng Chúa chịu nạn, với mão gai, với những vết thương đẫm máu xé nát toàn thân! Vì thế, để nên giống nhiều lần chỉ ăn bánh mì với chút nước lã; cũng nhiều khi không ăn uống gì cả. Càng lớn lên, cô càng tìm nhiều cách phạt xác. Cô lấy những cây có chất hóa học đốt cháy để bôi lên mình làm cho cháy da; hoặc tìm những cây có lông ngứa, cọ xát vào mình để chịu ngứa mà không gãi suốt ngày; hoặc dùng roi đánh tội đến chảy máu. Khi được phép cha mẹ, cô đã dọn ra sống tại cái chòi ngoài vườn. Ở đấy, cô làm một giường bằng gạch và rễ cây lộm cộm, khiến thân xác không thể tìm thấy thoải mái trong giấc ngủ. Khi bà thân mẫu muốn cô đội một vòng hoa, cô theo lời mẹ, nhưng đã độn một ít gai nhọn ở trong vòng. Bên cạnh chòi, cô làm một nhà nhỏ để thường xuyên săn sóc những người già yếu không được ai săn sóc thuốc thang, cơm nước.
Ðể thưởng công hy sinh nhiều của cô, Chúa Giêsu và Ðức Mẹ hiện ra với cô nhiều lần. Chúa hiện ra với dáng vóc và trạc tuổi cô. Hồng rất tôn kính, mến yêu và phó thác nơi Ðức Mẹ. Có những đêm kéo dài với hy sinh, cô thường xin Ðức Mẹ đánh thức kịp giờ tham dự Thánh lễ. Mỗi sáng khi thức dậy, cô được trông thấy gương mặt Ðức Mẹ trong ánh bình minh. Ngoài ra, Hồng còn được Thiên thần Bản mạnh thường xuyên hiện ra để cùng cầu nguyện với cô, an ủi hoặc dạy cô tập nhân đức.
Càng lớn tuổi Hồng càng tìm mọi cách hy sinh và phạt xác cách dũng cảm hơn. Ðể noi gương Chúa Giêsu và cảm thông sự thương khó của Người, cô thường vác một cây thập giá nặng ở ngoài vườn, và thường dùng xích sắt đánh phạt mình. Suốt đời cô mang trên ngực lời tâm niệm và cầu nguyện này: “Lạy Chúa, xin gia tăng đau khổ cho con – Cùng với các đau khổ, xin tăng bội Tình yêu cho trái tim con”. Cô đã được Tình yêu Chúa thiêu đốt và thúc bách, đến nỗi chỉ nói về Chúa. Khi nhìn thấy cô hoặc nghe cô nói, người ta thấy như những lưỡi lửa từ cô thấu nhập vào người nghe. Hiện tượng nầy cũng thường xảy ra khi người ta thấy cô chầu Thánh Thể và khi cô rước lễ.
Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Hồng, nhưng đời cô cũng bị bao phủ bằng đau khổ từ lúc bốn, năm tuổi. Quỷ dữ cũng được phép bua vây cô bằng nhiều thứ cám dỗ, và nó chỉ giảm bớt cám dỗ khi nào cô chịu giảm bớt hãm mình hoặc ươn ái kéo dài giờ ngủ. Trong một thời gian khá lâu, cô bị các linh mục kiểm tra và các bác sĩ khám nghiệm những hiện tượng siêu nhiên nơi cô. Nhất là suốt ba năm cuối đời, cô bị chính quyền quán thúc, dưới sự chèn ép của Don Goanzalo de Massa và bà vợ ông ta. Tại đây, cô chịu mọi cực khổ trong cơn bệnh cuối đời. Nhưng càng đau khổ, cô càng cầu nguyện và luôn lặp lại: “ Lạy Chúa, xin gia tăng đau khổ cho con – Cùng với các đau khổ, xin tăng bội tình yêu cho trái tim con”. Trong thời gian bị quản thúc, Hồng từ gĩa cõi đời ngày 24-8-1617, lúc mới 31 xuân xanh. Rất nhiều người đã đến viếng xác cô trong nhiều ngày, trước khi tiễn đưa cô đến phần mộ.
Mãi sau khi cô Hồng qua đời, dân thành Lima mới hiểu biết và cảm nghiệm sâu xa ảnh hưởng cuộc sống của cô. Họ hết lòng tôn kính cô. Khi quan tài của cô tiến vào phố nhà thờ chính tòa, mọi người than khóc tiếc thương cô pha lẫn niềm hân hoan chung của dân thành. Sau cùng di hài của cô được an táng nơi Tu viện dòng Ðaminh tại Lima. Vì đã xảy ra nhiều phép lạ và nhiều người được chữa lành khi cầu nguyện trên mộ cô, nên xác cô được di về thánh đường Thánh Ðaminh. Ngày nay, xác cô được tôn kính trong một nhà nguyện riêng. Rosa đệ Lima được Ðức Giáo Hoàng Clementê X phong thánh ngày 30-8-1671. Thánh Nữ được tôn kính khắp miền Mỹ châu thuộc Tây Ban Nha. Thánh Nữ thường được trình bày với biểu hiệu gồm một cái neo, một triều thiên hoa hồng, và một đô thị. Ðặc biệt Thánh Nữ được tuyên xưng làm bổn mạng của Miền Nam Mỹ và của quốc gia Phi Luật Tân.
No comments:
Post a Comment